Theo các chuyên gia, chính các yếu tố kinh tế vĩ mô, những thứ từng dẫn đến sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc, giờ đây lại là nguyên nhân khiến nước này sụp đổ.
Trong bài báo phân tích nguyên do của sự sụp đổ kinh tế Trung Quốc đăng trên tờ The Epoch Times, hai tác giả Matt Cole và Jeff Sherman đã đưa ra những ý kiến xác đáng, cung cấp một bức tranh lớn giải thích cho hiện tượng này. Tác giả Matt Cole là CEO và Giám đốc đầu tư của Strive Asset Management, một công ty có trụ sở tại Ohio với tài sản quản lý hơn 1 tỷ USD, trong khi tác giả Jeff Sherman là nhà quản lý danh mục đầu tư tại công ty này.
Hai tác giả cho biết, sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc để trở thành một cường quốc kinh tế toàn cầu dường như là điều không thể ngăn cản được, cho đến khi nó dừng lại. Giờ đây, với mối đe dọa từ lạm phát và một nền kinh tế hỗn loạn, các nhà quản lý tài sản đang nỗ lực giải thích những rủi ro mới được phát hiện ở Trung Quốc.
Các lý thuyết thị trường phổ biến cho rằng sự suy giảm kinh tế gần đây tại Trung Quốc bắt nguồn từ lĩnh vực bất động sản có quá nhiều đòn bẩy, “quá lớn để thất bại” và sự kìm hãm tới từ chính Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), thứ đã ngăn cản Trung Quốc chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào tiêu dùng.
Tất cả những điều đó có thể đúng. Nhưng các cách giải thích đó đã bỏ lỡ bức tranh lớn hơn: chính các yếu tố kinh tế vĩ mô, những thứ từng dẫn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc, giờ đây lại là nguyên nhân khiến nước này sụp đổ.
Theo hàm Sản xuất Cobb-Douglas, sản lượng kinh tế đến từ ba yếu tố đầu vào: lao động, vốn và cái mà các nhà kinh tế gọi là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). TFP có thể được coi là đại diện cho sự hiệu quả trong sử dụng lao động và vốn, thường là thông qua đổi mới công nghệ. TFP là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các quốc gia. Trong khi lao động và vốn tương đối đồng nhất giữa các quốc gia, TFP thường được coi là yếu tố đóng góp chính cho tăng trưởng GDP. Đó là điều cho phép các quốc gia như Hoa Kỳ, nơi chưa bao giờ chiếm hơn 1/10 dân số thế giới, liên tục đóng góp lên tới 1/3 GDP toàn cầu.
Mô hình này giải thích sự đi lên của Trung Quốc để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới trong 70 năm qua. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc có dân số đông nhất thế giới, cho phép nước này có nguồn lao động dồi dào. Và chính sách một con cũng đã tạm thời củng cố lực lượng lao động. Phụ nữ, trước đây bị giới hạn trong việc nuôi con trong khoảng thời gian từ một thập kỷ trở lên, giờ đây được tự do làm việc. Sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động tăng mạnh, làm tăng sản lượng và thu nhập hộ gia đình.
Đến lượt mình, sự thịnh vượng ngày càng tăng của Trung Quốc đã thúc đẩy đầu tư. Các xã hội phương Tây và các hệ thống lương hưu thường được nhà nước hậu thuẫn của họ bắt đầu cung cấp nhiều tỷ đô la vốn đầu tư cho Trung Quốc.
Kể từ Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc đã không thể tự mình phát triển những tiến bộ công nghệ mà đã tăng cường tiềm năng sản xuất bằng cách bắt chước hoặc trong nhiều trường hợp là trộm cắp tài sản trí tuệ một cách trắng trợn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn nhất của Trung Quốc – chẳng hạn như Tencent, Alibaba, Baidu và Luckin Coffee – đều là sản phẩm nhái của những đổi mới được phát triển ở nơi khác. Những doanh nghiệp Trung Quốc này chỉ tồn tại nhờ nguồn vốn phương Tây, chủ nghĩa bảo hộ của ĐCSTQ và sự kiểm duyệt internet, những thứ bảo vệ những kẻ bắt chước này khỏi các đối thủ quốc tế nhanh nhẹn hơn họ.
Tuy nhiên, chính những chính sách kế hoạch hóa tập trung đã dẫn đến thành công của Trung Quốc giờ đây lại là ngọn nguồn tạo ra thất bại. Chính sách một con của ĐCSTQ — mặc dù đã chính thức bị bãi bỏ vào năm 2016 — đã tạo ra những thay đổi về các thế hệ và văn hóa, khiến Trung Quốc mất đi hàng triệu phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ mỗi năm và tỷ lệ sinh thấp hơn một nửa tỷ lệ thay thế.
Vào năm 2023, dân số Trung Quốc giảm xuống thấp hơn dân số Ấn Độ, đồng nghĩa với việc nước này không còn là quốc gia đông dân nhất thế giới nữa – một danh hiệu mà nước này khó có thể lấy lại được. Lực lượng lao động suy giảm đe dọa vị thế của Trung Quốc không chỉ với tư cách là nhà sản xuất toàn cầu mà còn với tư cách người tiêu dùng toàn cầu. Các công ty đa quốc gia sẽ không còn khao khát cơ sở người tiêu dùng Trung Quốc nữa, họ cũng sẽ không còn sẵn sàng gạt bỏ lý lẽ thông thường và các phán đoán kinh doanh sang một bên để có được cơ hội mở cơ sở kinh doanh tại Trung Quốc.
Vốn cũng đang rời khỏi đất nước này. Cục Quản lý Ngoại hối Nhà nước Trung Quốc tháng trước báo cáo rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc trong năm 2023 đã giảm 82%, xuống mức thấp nhất trong 30 năm. Sự thay đổi đột ngột này làm nổi bật việc rút tiền ra khỏi Trung Quốc của các công ty nước ngoài. Nếu một cơ quan chính phủ Trung Quốc báo cáo những con số yếu kém, bạn có thể hiểu rằng con số thực tế có thể còn tệ hơn nhiều.
Các công ty đa quốc gia cũng không hề đơn độc trong xu hướng này. Các nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đã chuyển đổi khoản đầu tư vào các thị trường mới nổi của họ sang các quỹ thị trường mới nổi ngoài Trung Quốc như một cách để quản lý rủi ro từ Trung Quốc một cách riêng biệt hoặc loại bỏ nó hoàn toàn. Vào năm 2023, các quỹ thị trường mới nổi ngoài Trung Quốc đã thu về 5,6 tỷ USD trong khi Trung Quốc có một trong những thị trường chứng khoán hoạt động yếu kém nhất, với mức lỗ trong năm vượt quá 10%.
Và còn có vấn đề với TFP. Hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ hung hãn của Trung Quốc đã trở nên táo tợn đến mức các chính phủ và công ty phương Tây bắt đầu phải chú ý. Chính quyền Biden đang hạn chế xuất khẩu phần cứng AI tiên tiến nhất của Mỹ sang Trung Quốc. Nền kinh tế Trung Quốc suy thoái cũng có nghĩa là có ít đòn bẩy hơn để yêu cầu các công ty Mỹ thành lập liên doanh hoặc chuyển giao thông tin kỹ thuật như một điều kiện để kinh doanh ở đó. Một cuộc di cư hàng loạt của các công ty phương Tây có nghĩa là sẽ có ít công nghệ bị đánh cắp hơn.
Trung Quốc không thể tự mình phát triển để thay thế được những công nghệ mà trước đây họ đã đánh cắp. Đất nước này thiếu sự tự do cá nhân, tự do kinh tế và sự khuyến khích tới từ lợi nhuận cần thiết để tạo ra sự đổi mới vốn thúc đẩy phần lớn tăng trưởng kinh tế trong thế giới hiện đại.
Kết quả là một vòng xoáy đi xuống kéo dài. Vốn nước ngoài càng rút đi thì càng có nhiều quốc gia và công ty được khuyến khích tự bảo vệ mình khỏi hành vi trộm cắp của Trung Quốc, và ĐCSTQ càng cố gắng siết chặt sự kiểm soát của mình đối với bất cứ điều gì họ tin là còn nằm trong tầm kiểm soát của mình, thì đầu tư nước ngoài càng sợ hãi và rút đi. Theo quan điểm của Trung Quốc, biện pháp khắc phục duy nhất cho sự thất bại của kế hoạch hóa tập trung là gia tăng kế hoạch hóa tập trung hơn. Nhưng bạn không thể đổi mới bằng vũ lực, và bạn không thể ra lệnh cho trẻ em được sinh ra hoặc ép buộc tạo ra sự thịnh vượng bằng các luật lệ.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trong khoảng nửa thế kỷ qua là một thành tựu ấn tượng và là minh chứng cho sức mạnh của những cải thiện dù là nhỏ nhất về tự do kinh tế. Tuy nhiên, sự kiểm soát chặt chẽ của ĐCSTQ đối với các yếu tố sản xuất đang làm tăng rủi ro đầu tư vào Trung Quốc, đồng thời gieo mầm mống cho sự suy thoái kinh tế của nước này, hai tác giả kết luận.
Cấu trúc cơ bản của kinh tế Trung Quốc đã bị phá vỡ
Một nhà quản lý quỹ phòng hộ nổi tiếng cho biết nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn do đã đầu tư mạnh vào lĩnh vực bất động sản, điều có thể dẫn đến một cuộc suy thoái tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008.
Ông Kyle Bass, người sáng lập và giám đốc đầu tư của Hayman Capital Management, đã chỉ ra trong một cuộc phỏng vấn với CNBC vào ngày 5/2 rằng “phép màu” kinh tế của Trung Quốc chủ yếu dựa vào bất động sản để thúc đẩy tăng trưởng.
Ông nói: “Cấu trúc cơ bản của nền kinh tế Trung Quốc đã bị phá vỡ”. “Nó bị phá vỡ vì nó đã xoay quanh bất động sản”.
“Phần lớn tăng trưởng GDP của Trung Quốc là do bất động sản và các vòng tròn đồng tâm bao quanh bất động sản. Và bây giờ, bạn đang gặp phải sự đảo chiều sau đợt tăng trưởng không được kiểm soát và tăng liên tục trong lĩnh vực bất động sản”.
Theo The Economist, lĩnh vực bất động sản chiếm 70% tổng tài sản hộ gia đình của Trung Quốc và khoảng 25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Trong cuộc phỏng vấn, ông Bass đã thảo luận về mức độ khổng lồ của các khoản nợ bất động sản của Trung Quốc, trích dẫn các khoản nợ của Evergrande và Country Garden, hai nhà phát triển bất động sản lớn nhất Trung Quốc. Evergrande bị tòa án Hong Kong ra lệnh thanh lý vào gần đây, còn Country Garden đã nhiều lần không trả được nợ tồn đọng và cũng đang đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Evergrande là công ty mắc nợ nhiều nhất thế giới với khoản nợ 340 tỷ USD. Công ty này đang là trung tâm của cuộc khủng hoảng bất động sản đang tiếp diễn mà các chuyên gia cho rằng đang gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Vào tháng 7/2023, công ty công bố khoản lỗ tổng cộng 81 tỷ USD cho năm 2021 và 2022.
Ông Bass lưu ý rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008, hệ thống ngân hàng Mỹ đã mất khoảng 800 tỷ USD. Để so sánh, khoản thiệt hại có thể có ở hai công ty bất động sản Trung Quốc lên tới 500 tỷ USD.
Ông nói: “Chúng ta đang nói về 500 tỷ USD, đây gần như là khoản tổn thất trong 2 công ty, cùng tất cả các nhà phát triển và sự phá sản còn lại”, ông nói, đồng thời cảnh báo về một viễn cảnh tàn khốc đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Ông Bass lưu ý: “Bây giờ, bạn đang chứng kiến sự sụp đổ của bất động sản”. “Vì vậy, điều này giống như một trường hợp cực đoan hơn khủng hoảng tài chính Mỹ. Họ có đòn bẩy ngân hàng cao gấp ba lần rưỡi so với thời điểm chúng ta [người Mỹ] gặp khủng hoảng. Và họ mới chỉ có vấn đề ngân hàng thế này được vài thập kỷ”.
Ông nói: “Trung Quốc sẽ trở nên tồi tệ hơn nhiều cho dù các cơ quan quản lý của họ có nói rằng chúng tôi sẽ bảo vệ các cá nhân khỏi việc bán khống bất hợp pháp đến mức nào đi nữa”.
Ông Bass cũng cảnh báo về các khoản nợ của chính quyền địa phương Trung Quốc, vốn đã tăng lên khoảng 13 nghìn tỷ USD, tương đương 76% sản lượng kinh tế của đất nước vào năm 2022, tăng từ mức 62,2% vào năm 2019.
Một phần trong số đó là khoản nợ do các phương tiện tài chính của chính quyền địa phương (LGFV) phát hành, vốn được các thành phố sử dụng để huy động tiền cho các dự án cơ sở hạ tầng, thường được chính quyền trung ương khuyến khích để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo Bloomberg, các LGFV của Trung Quốc phải thanh toán lượng tiền trái phiếu kỷ lục 651 tỷ USD trong năm nay.
“Trung Quốc quay 20 chiếc đĩa và tất cả các chiếc đĩa đều đang đổ vỡ tan tành”, ông Bass nêu rõ.
Nguy cơ Trung Quốc không thể phục hồi kinh tế
Bắc Kinh tuyên bố Trung Quốc đã đạt được mục tiêu tăng trưởng 5% cho năm 2023, đồng thời tích cực đề cao tính hấp dẫn của nền kinh tế Trung Quốc trong mắt cộng đồng đầu tư quốc tế.
Tuy nhiên, bất chấp bức tranh màu hồng mà ĐCSTQ cố gắng tô vẽ cho kinh tế Trung Quốc, các chuyên gia không có cái nhìn tích cực như vậy.
Rhodium Group, một nhóm nghiên cứu độc lập có trụ sở tại Mỹ, cho biết thực tế của việc lĩnh vực bất động sản vẫn đang bị thu hẹp, chi tiêu của người tiêu dùng bị hạn chế, thặng dư thương mại suy giảm và tài chính của chính quyền địa phương bị tàn phá cho thấy mức tăng trưởng thực tế vào năm 2023 ở gần mức 1,5% hơn.
Trong khi đó, vào ngày 8/1, Nhóm Eurasia đã công bố báo cáo “Những rủi ro hàng đầu cho năm 2024”, xếp việc “Trung Quốc không phục hồi” nằm trong số 10 rủi ro toàn cầu hàng đầu trong năm. Báo cáo “Rủi ro hàng đầu” là dự báo hàng năm của Eurasia về những rủi ro chính trị có khả năng xảy ra nhất trong năm tới. (Bắc Kinh vẫn đang loay hoay giúp nền kinh tế Trung Quốc phục hồi sau đại dịch).
Báo cáo dự đoán rằng “bất kỳ tín hiệu hiệu phục hồi tích cực nào trong nền kinh tế Trung Quốc sẽ chỉ làm dấy lên những hy vọng hão huyền về sự phục hồi vì những hạn chế về kinh tế và động lực chính trị ngăn cản sự phục hồi tăng trưởng bền vững”.
Khủng hoảng niềm tin
Đằng sau những tin tức tiêu cực gần đây về chứng khoán Trung Quốc hay những kỷ lục buồn về kinh tế là một vấn đề thậm chí còn đáng lo ngại hơn. Đó chính là sự mất lòng tin của công chúng đối với nền kinh tế Trung Quốc. Điều này khiến người dân ngần ngại chi tiền, các doanh nghiệp ngần ngại đầu tư kinh doanh, nền kinh tế trì trệ với giảm phát dai dẳng, và thị trường chứng khoán cũng theo đó lao dốc.
Trong bài báo “Kinh tế Trung Quốc cho thấy các điểm tương đồng với Mỹ trong thời kỳ Đại khủng hoảng”, đăng ngày 21/1 trên tờ The Epoch Times, tác giả Ezrati đã phân tích về khủng hoảng niềm tin trong nền kinh tế Trung Quốc.
Ông Ezrati cho biết, Trung Quốc chưa trải qua sự sụp đổ của thị trường chứng khoán giống như điều Mỹ đã phải gánh chịu vào năm 1929. Tuy nhiên, điểm chung của Trung Quốc với nước Mỹ vào thời kỳ đó là sự mất niềm tin khủng khiếp vào cấu trúc và tương lai của nền kinh tế. Ông Ezrati cho rằng, bức tranh kinh tế năm 2024 của Trung Quốc không mấy hứa hẹn.
Trong bài báo “Trung Quốc có đang bước vào giai đoạn bị lãng quên về kinh tế?”, đăng ngày 23/1, trên tờ The Epoch Times, chuyên gia James Gorrie cho rằng kinh tế Trung Quốc nhiều khả năng sẽ rơi vào một “thập kỷ mất mát” như của Nhật Bản.
Bảo Nguyên tổng hợp